Nguồn thực phẩm từ cây, rau củ. Ngoài việc mang lại giá trị dinh dưỡng cung cấp hàng ngày cho con người. Một số loại cây, rau, củ còn có khả năng phòng và chữa bệnh. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về công dụng chữa bệnh của một số loại cây , rau củ phổ biến. Chúng có thể giúp chúng ta có sự lựa chọn tốt hơn khi sử dụng để phòng và chữa bệnh.
I – Cây rau khúc:
Rau khúc còn có tên gọi là rau khúc vàng, thử khúc thảo. Đây là cây cỏ sống hằng năm, cao 40-50cm. Thân đứng, có lông như bông. Lá nguyên, mọc so le, thuôn hình dải, tù và có mũi cứng ở đỉnh. Hình dáng thon hẹp dài lại ở gốc, hơi men theo cuống. Lá dài 4-7cm, rộng 5-15mm, có lông mềm. Đầu hoa màu vang ánh, tập hợp thành ngũ, với nhiều lá bắc có lông như bông ở mặt lưng. Quả bế thuôn hình trứng, có mào lông gồm những tơ sợi tóc.
Rau khúc nhân bổ ở vùng Viễn Đông, từ Ấn Độ tới Trung Quốc, Nhật bản sang Philippin. Ở nước ta rau khúc rất phổ biến ở những nơi đất trống các ruộng bỏ hoang. Nhiều nhất là các tỉnh phía Bắc. Còn có một lòai khác là rau khúc tẻ hay rau khúc Ấn Độ
Một số bài thuốc Nam có rau khúc thường dùng:– Chữa cảm sốt: Rau khúc 30 g, gừng tươi 5 lát, hành 2 củ. Sắc uống ngày một thang.
– Chữa ho, viêm họng: Rau khúc 30 g, củ rẻ quạt 5 g, diếp cá 50 g. Sắc uống ngày một thang.
– Chữa hen suyễn: Rau khúc 30 g, lá bồng bồng 20 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.
– Chữa tăng huyết áp: Rau khúc 30 g, lá dâu 20 g. Nấu canh ăn hằng ngày.
– Chữa chấn thương đụng dập: Rau khúc lượng vừa đủ, giã nát, băng đắp nơi sưng đau.
– Chữa rắn cắn: Lá rau khúc tươi giã nát, đắp rịt vào chỗ rắn cắn.
II – Cây nghệ:
Nghệ ngoài được dùng trong chế biến thực phẩm, còn có tác dụng làm đẹp và chữa bệnh. Phụ nữ có thai bị ra máu, dọa sẩy có thể lấy nghệ vàng, đương quy, thục địa, ngải cứu, sừng hươu. Mỗi vị 1 lạng. Sao khô vàng, tán nhỏ, mỗi lần uống 4 đồng cân (khoảng 40g). Dùng gừng tươi 3 lát, táo 3 quả, sắc với nước, uống nóng trước bữa ăn.
Củ nghệ vàng còn có các tên gọi như khương hoàng, vị cay đắng, tính bình, có tác dụng hành khí, hoạt huyết, làm tan máu, tan ứ và giảm đau. Uất kim (củ con của cây nghệ) vị cay ngọt, tính mát, làm mát máu, an thần, tan máu ứ, giảm đau.
Sách Đông y bảo giám cho rằng khương hoàng có tác dụng phá huyết, hành khí, thông kinh, chỉ thống (giảm đau), chủ trị bụng chướng đầy, cánh tay đau, bế kinh, sau đẻ đau bụng do ứ trệ, vấp ngã, chấn thương, ung thũng…
Nhật hoa tử bản thảo cho khương hoàng có tác dụng trị huyết cục, nhọt, sưng, thông kinh nguyệt, vấp ngã máu ứ, tiêu sưng độc, tiêu cơm…
Một số phương thuốc dùng nghệ trong Nam dược thần hiệu :
– Phòng và chữa các bệnh sau đẻ; Dùng 1 củ nghệ nướng, nhai ăn, uống với rượu hay đồng tiện (nước tiểu trẻ em khỏe mạnh).
– Chữa lên cơn hen, đờm kéo lên tắc nghẹt cổ, khó thở; Dùng nghệ 1 lạng, giã nát, hòa với đồng tiện, vắt lấy nước cốt uống.
– Chữa trẻ em đái ra máu hay bệnh lậu đái rắt: Dùng nghệ và hành sắc uống.
– Trị chứng điên cuồng, tức bực lo sợ; Nghệ khô 250 g, phèn chua 100 g, tán nhỏ, viên với hồ bằng hạt đậu, uống mỗi lần 50 viên với nước chín (có thể uống mỗi lần 4-8 g), ngày uống 2 lần.
– Chữa đau trong lỗ tai: Mài nghệ rỏ vào.
– Chữa trị lở, lòi dom: Mài nghệ bôi vào.
III – Củ riềng:
Riềng là gia vị tính nóng, ngoài tác dụng làm gia vị còn có tác dụng chữa bệnh. Củ riềng dùng để chữa đầy bụng, nôn mửa; lấy riềng củ, gừng khô, củ gấu phơi khô lượng bằng nhau đem tán nhỏ, rây lấy bột mịn. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 4-6 g.
Củ riềng (còn có tên là cao lương khương) và quả hột riềng đều vị cay, tính ấm, làm ấm bụng, chống khí lạnh, thường được dùng để chữa đau bụng, nôn mửa, nấc. Liều dùng 310 g đối với củ, hoặc 2-6 g đối với quả.
Một số bài thuốc Nam được dùng trong dân gian:
– Chữa đau bụng lạnh, nôn mửa, tiêu chảy: Riềng, củ gấu, gừng khô liều lượng bằng nhau, tán nhỏ, uống mỗi lần 6 g, ngày uống 3 lần.
– Chữa sốt rét cơn, ăn không tiêu, buồn nôn hoặc đau bụng thổ tả; Hạt riềng tán nhỏ, uống 6-10 g.
– Chữa hắc lào: Củ riềng già 100 g, giã nhỏ, ngâm với 200 ml rượu hoặc cồn 70 độ. Chiết ra dùng dần, khi dùng, bôi dung dịch cồn nói trên vào chỗ tổn thương, ngày bôi vài lần.
– Chữa ho, viêm họng, tiêu hóa kém; Riềng củ thái lát mỏng, đem muối chua, khi dùng có thể ngậm với vài hạt muối hoặc nhai nuốt dần.
IV – Nước cà rốt:
Cà rốt là một trong những thực phẩm rất giàu chất dinh dưỡng, đặc biệt là vitamin. Sách Bản thảo cương mục viết: “Cà rốt có tác dụng hạ khí bổ trung, làm lợi cho cơ hoành và tràng vị, làm yên ngũ tạng và giúp ăn khỏe”. Sách Y lâm cải yếu cho rằng cà rốt có khả năng “nhu nhuận tạng thận, làm khỏe dương khí, ấm hạ bộ, trừ hàn thấp”. Sách Nhật dụng bản thảo xem cà rốt là thứ thuốc “có thể chữa chứng quáng gà, suy dinh dưỡng, trẻ em còi xương, không muốn ăn, khô tròng mắt”.
Các nghiên cứu hiện đại cho thấy, cà rốt rất giàu dinh dưỡng, ngoài protid, lipid, glucid và chất xơ còn có nhiều nguyên tố vi lượng và các vitamin, nhất là carotene. Về tác dụng dược lý, cà rốt có khả năng điều tiết cơ năng sinh lý của cơ thể, tăng cường thể chất, nâng cao năng lực miễn dịch, kháng khuẩn, giải độc, làm hạ đường máu, dự phòng tích cực các bệnh lý do thiếu vitamin A, cao huyết áp, xơ vữa động mạch, đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim.
Gần đây, nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh cà rốt còn có tác dụng chống lão hóa và dự phòng tích cực bệnh lý ung thư.Cà rốt 250 g cạo vỏ, thái miếng; dâu tây 250 g bỏ cuống, dùng máy ép hai thứ lấy nước cốt, hòa với 5 ml nước ép chanh và 2-3 miếng đường phèn, chia uống vài lần trong ngày.
Dùng cho những người bị cao huyết áp, viêm thận, tiểu đường, táo bón mạn tính, phụ nữ da thô và khô…
Từ cà rốt, có thể tạo ra các loại đồ uống thơm ngon vừa có tác dụng giải khát bổ dưỡng vừa giúp phòng chống bệnh tật. Sau đây là một số công thức:
– Cà rốt 150 g, mật ong 50 g, nước chín để nguội vừa đủ. Cà rốt rửa sạch, cạo vỏ, thái thành miếng nhỏ rồi dùng máy ép lấy nước (nếu không có máy ép thì giã thật nát rồi dùng vải bọc lại, vắt lấy nước cốt); cho mật ong và chế thêm nước vừa đủ, quấy đều rồi uống. Dịch thể thu được có màu quất chín rất hấp dẫn, mùi vị thơm ngon tự nhiên. Nước có công dụng bổ dưỡng, nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể, giúp phòng chống bệnh cao huyết áp.
– Cà rốt 150 g, táo tây (loại táo quả to nhập từ Trung Quốc hoặc châu Âu) 150 g, nước ép chanh 15 ml, mật ong 10 ml. Cà rốt và táo rửa sạch, thái miếng rồi dùng máy ép lấy nước (với táo nên ép ngay vì để lâu sẽ bị biến màu, nếu cần thì ngâm trong dung dịch nước muối 2-3%), cho mật ong và nước chanh vào quấy thật kỹ và uống hàng ngày. Đây là loại thức uống giàu chất dinh dưỡng, có tác dụng nâng cao sức đề kháng và giúp phục hồi sức khỏe rất tốt.
– Cà rốt 500 g, lê tươi 500 g, nước chín để nguội 1.000 ml, mật ong 20 ml; Lê rửa sạch để ráo nước, ngâm với nước muối 3% trong 15 phút, sau đó thái miếng, dùng máy ép lấy nước; cà rốt rửa sạch, cạo vỏ thái miếng, dùng máy ép lấy nước. Hòa hai thứ nước ép với nhau, chế thêm mật ong, quấy đều rồi chia uống vài lần trong ngày. Đây cũng là một loại đồ uống rất giàu chất dinh dưỡng; có tác dụng cường thân kiện lực, bồi bổ sức khỏe, làm đẹp da và râu tóc, phòng chống tích cực bệnh lý ung thư, đặc biệt thích hợp với những người ở tuổi trung và lão niên.
– Cà rốt 100 g, mía 500 g, chanh quả 80 g, nước chín để nguội vừa đủ. Cà rốt rửa sạch, cạo vỏ, thái miếng, đem hầm thật nhừ, đánh nhuyễn rồi dùng vải lọc lấy nước; mía róc vỏ, chẻ nhỏ, dùng máy ép lấy nước. Hòa nước cà rốt và nước mía với nhau, vắt chanh, quấy đều rồi chia uống vài lần trong ngày; Dịch thể thu được có màu hồng vàng, mùi thơm, vị ngọt, dùng làm nước giải khát và bổ dưỡng khá tốt. Theo các nhà dinh dưỡng học Trung Quốc, loại đồ uống này có tác dụng phòng chống ung thư.
– Cà rốt 250 g, quất 100 g, chuối tiêu chín 150 g, đường phèn vài miếng. Cà rốt rửa sạch, cạo vỏ, thái miếng, dùng máy ép lấy nước; quất vắt lấy nước cốt. Chuối tiêu bóc vỏ, đánh nhuyễn rồi đổ nước cà rốt và nước quất vào, quấy thật đều; chế thêm đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. Loại nước này có mùi thơm khá đặc biệt; dễ uống và giá trị bổ dưỡng rất cao; đặc biệt thích hợp cho những người bị cao huyết áp và chán ăn.
– Cà rốt 1.000 g, trám tươi 250 g, đường trắng vừa đủ. Cà rốt rửa sạch, thái chỉ; trám bỏ hạt, thái lát mỏng. Hai thứ đem ép lấy nước rồi đun sôi lên, chế thêm đường trắng, chia uống vài lần trong ngày. Đây là loại nước giải khát và bổ dưỡng rất hữu ích; đặc biệt thích hợp cho những người bị viêm họng, viêm phế quản, viêm amiđan, viêm gan…
V – Hạt bí ngô:
Quả bí ngô là loại thực phẩm rất giàu dinh dưỡng, được dùng nhiều trong chế biến món ăn. Tuy nhiên hạt của nó cũng có hàm lượng lớn các khoáng chất và dinh dưỡng cần thiết rất tốt cho cơ thể; hạt bí ngô còn chứa delta 7-phytosterol, một hoạt chất sterol đặc hiệu giúp phòng ngừa và điều trị chứng rối loạn lipid máu, đồng thời làm chậm tiến triển bệnh xơ vữa động mạch…
Hạt bí ngô có đủ các protein và khoáng chất như sắt, Mg, Ca, Zn, Selen…, chất xơ; các axit béo không no như omega-3 và omega-6; vitamin E; beta caroten; tiền chất prostaglandin; và một số axit amin khác như axit glutamic, arginine…
Đặc biệt, chất delta7-phytosterol chỉ được tìm thấy trong hạt bí ngô mà không có ở bất kỳ loại dầu thực vật nào khác. Chính delta7-phytosterol quyết định khả năng phòng ngừa và điều trị bệnh của hạt bí ngô; song hàm lượng của nó lại phụ thuộc phần lớn vào điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và thời vụ gặt hái…
Tác dụng của hạt bí ngô:
– Giảm các triệu chứng của bệnh phì đại tiền liệt tuyến như hạn chế số lần tiểu tiện ban đêm, giảm thể tích nước tiểu tồn dư, cải thiện chứng khó tiểu, đi tiểu buốt và nhiều lần.
– Làm dịu tình trạng hoạt động quá mức của bàng quang
– Phòng ngừa và điều trị chứng rối loạn lipid máu, làm chậm tiến triển chứng xơ vữa động mạch.
Hiện nay, thành phần delta7-phytosterol đặc hiệu với hàm lượng cao của hạt bí ngô có thể được điều chế dưới dạng viên nang mềm Peponen. Người dân châu Âu, Mỹ đang sử dụng phổ biến dung dịch này như một dạng bổ sung dinh dưỡng quan trọng
VI – Vỏ Cam Quýt :
Tác dụng tuyệt vời của trái cam – quýt là chúng ta có thể sử dụng cà phần ruột và phần vỏ.Nhai vỏ cam có thể khiến bạn nhăn mặt, song thực chất nó rất tốt cho sức khỏe. Theo một nghiên cứu mới đây của Mỹ, chiết xuất từ vỏ cam, quít có khả năng hạn chế gan xuất tiết loại cholesterol độc hại LDL – thủ phạm gây ra các bệnh tim mạch.
Hợp chất từ vỏ cam quít có tên khoa học là polymethoxylated flavones (PMF) – thực chất là những yếu tố chống oxy hóa tích cực thuộc nhóm flavonoi
Tiến sĩ Elzbieta Kurowska làm việc cho một công ty dược của Canada tại Mỹ có tên là KGK Synergize, cho biết. Nhóm flavonoid tập trung trong các loại rau quả, lá chè và rượu vang đỏ. Trong phần thịt của hoa quả chua cũng chứa các chất PMF, song chỉ ở một lượng rất nhỏ do hợp chất này không hòa tan trong nước. Trong khi đó, vỏ của chúng lại tập trung PMF nhiều gấp 20 lần. Cơ thể con người rất dễ hấp thu và chuyển hóa các chất này.
Trong nghiên cứu, Kurowska và cộng sự đã vỗ béo cho những con chuột đồng bằng một chế độ dinh dưỡng giàu cholesterol, rồi cho chúng hấp thu hợp chất PMF từ vỏ cam, quít. Kết quả cho thấy; chỉ 1% PMF trong khẩu phần ăn hằng ngày cũng làm giảm tới 40% lượng cholesterol LDL ở số chuột trên.
Nhóm nghiên cứu cũng thử nghiệm hai chất flavonoid đặc trưng khác là hesperetin và naringenin trên một số con chuột có cholesterol cao; và tác dụng hạ cholesterol LDL cũng được ghi nhận. Tuy nhiên, hai chất này phải cần tới một lượng lớn gấp 3 lần hợp chất PMF từ vỏ cam, quít mới cho hiệu quả tương tự.
Theo Kurowska, PMF có thể đã khống chế khả năng phân tiết cholesterol LDL của gan. Nhóm đang tính đến việc tăng cường hiệu quả chống loại cholesterol độc hại này bằng việc kết hợp PMF với vitamin E. Tuy nhiên, để giảm cholesterol, người ta không thể trông cậy hoàn toàn vào vỏ cam quít. Lời khuyên là năng vận động cơ thể, ăn nhiều rau quả và hạn chế tối đa chất béo no
VII- Tỏi:
Sức mạnh của gia vị này đã được biết từ mấy nghìn năm trước. Những người xây Kim tự tháp đã ăn tỏi để lấy sức mạnh. Các chiến binh La Mã ăn tỏi để chữa bệnh cúm. Các vận động viên Olympic Hy Lạp cổ đại cũng dùng nó để cải thiện sức bền. Còn trong Thế chiến 1, nhiều người lính sử dụng tỏi như thuốc kháng sinh.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, tỏi giúp phục hồi allicin, một hợp chất tự nhiên trong cơ thể, có tác dụng chống ung thư, giảm cholesterol và giảm huyết áp.
Trong vòng 20 năm qua, có hơn 700 nghiên cứu về tác dụng của tỏi. Viện Ung thư (Mỹ) phát hiện thấy tỏi giúp làm giảm nguy cơ ung thư dạ dày. Nhiều nghiên cứu khác kết luận tỏi hạn chế nguy cơ tắc động mạch vành và giảm nồng độ cholesterol có hại. Một công trình của Đại học Ohio (Mỹ) cho thấy, phụ nữ và đàn ông ở độ tuổi 50-80 nếu ăn khoảng 300 mg tỏi mỗi ngày trong 2 năm sẽ giảm 15% nguy cơ tắc động mạch chủ so với những người không ăn.
Theo một nghiên cứu khác, tỏi có thể giết hoặc làm chậm sự phát triển của 60 loại nấm và 20 loại vi khuẩn. Nó cũng có ích với phụ nữ mãn kinh vì rất giàu oestrogen thực vật, giúp giảm nguy cơ ung thư và hạn chế những tác động của hội chứng mãn kinh.
Các chuyên gia cho rằng, ở bất kỳ dạng nào, tỏi cũng đều an toàn. Khoảng 1 hoặc 2 nhánh tỏi (hoặc 600-900mg) mỗi ngày là liều lượng phổ biến và rất tốt cho sức khỏe. Bạn có thể thêm tỏi tươi hay tỏi bột vào các món súp, thịt, rau hay salad.
Nếu tỏi tươi làm bạn khó chịu, bạn có thể chọn tỏi chín, tỏi bột hay dầu tỏi. Tỏi bột thực tế là tỏi sấy khô nghiền ở nhiệt độ cao. Bột tỏi giảm mùi hắc những vẫn duy trì được tác dụng. Nếu bạn khó chịu bởi mùi tỏi, hãy chọn loại già ngày; sử dụng những chất khử mùi như kẹo cao su, hoa quả chua.
VIII – Rau dền:
Rau dền có 2 loại: trắng và đỏ. Ngoài tác dụng làm món ăn, cả 2 loại rau này đều là những vị thuốc hay. Rau dền vị ngọt, tính lạnh, không độc, giúp dễ sinh, trị lở môi, lở loét do sơn ăn và sát trùng, khử độc nọc ong, rắn.
Trong Đông y, rau dền có thể dùng trong các trường hợp sau:
– Trị chứng máu nóng sinh kiết lỵ, lở loét; Bệnh này xuất hiện do bên trong quá nóng mà sinh ra bị kiết lỵ; lở loét hoặc bị cả 2 bệnh trong cùng một thời gian. Dùng rau dền đỏ luộc chín tới, ăn cả nước lẫn cái. Mỗi ngày ăn khoảng 15-20 g, ăn trong vài ngày là khỏi. Nếu mắc chứng ho lâu ngày, dai dẳng không khỏi thì bài thuốc này cũng trị được.
– Trị rắn cắn: Lấy rau dền đỏ giã nát; vắt lấy khoảng 1 bát nước cho uống, còn bã đắp lên vết thương. Khi bị rắn cắn; phải lập tức băng chặt (bằng dây chun hoặc dây vải) phía trên vết cắn (phía gần với tim hơn) rồi mới dùng thuốc. Sau đó, phải đưa ngay đến bệnh viện gần nhất.
– Chữa vết ong đốt: Nếu bị ong đốt (nhất là giống ong to có độc) thì lấy rau dền vò nát, xát cả vào vết đốt là khỏi.
Lưu ý: Không nên ăn thịt ba ba cùng với rau dền có thể gây độc. Gặp trường hợp này, cần uống nước rau muống giã hoặc ăn rau muống sống để giải độc.
IX – Mía:
Để chữa nứt nẻ chân, lấy ngọn mía và bèo cái mỗi thứ khoảng 100 g, giã nát, thêm vào một bát nước tiểu (trẻ em càng tốt), nấu sôi. Để nước ấm rồi ngâm chỗ nứt nẻ khoảng 30 phút.
Nước mía vị ngọt mát, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, giải độc, tiêu đờm, chống nôn mửa, chữa sốt, tiểu tiện nước đỏ và rất bổ dưỡng. Một số bài thuốc cụ thể:
– Chữa chín mé: Lấy lõi trắng ở ngọn cây mía giã nát, trộn với lòng trắng trứng gà rồi đắp và băng lại.
– Chữa ngộ độc: Thân mía 80 g, thục địa, ý dĩ, cam thảo bắc mỗi thứ 30 g, lá tre, kim ngân, rễ cỏ tranh, rễ ngưu tất mỗi thứ 20 g. Cho vào 1 lít nước, nấu sôi rồi đun lửa nhỏ 15-20 phút, uống nóng hoặc để nguội tùy theo sở thích mỗi người. Cũng có thể chữa ngộ độc bằng cách lấy thân cây mía giã nát cùng với rễ cỏ tranh, ép lấy nước đun sôi trộn với nước dừa mà uống.
– Chữa khí hư: Lá cây mía tím 30 g, lá huyết dụ 30 g, hoa mò đỏ 20 g, rễ mò trắng 80 g. Tất cả các vị trên thái nhỏ, sao vàng rồi sắc lên uống hàng ngày.
– Làm thuốc an thai: Mầm mía 30 g, củ gai 30 g, ích mẫu 20 g, củ gấu 80 g, sa nhân 2 g. Tất cả các vị thái nhỏ, phơi khô sắc với 400 ml nước, còn 100 ml uống trong ngày, chia làm 2 lần.
Lưu ý: Trong bữa ăn có cua thì không nên ăn mật mía, dễ sinh độc.
X – Rau họ cải:
Chỉ cần ăn 2-3 bữa các loại rau cải/ tuần, bạn có thể tránh căn bệnh ung thư ruột kết. Trong quá trình chế biến, những loại rau này sẽ sản sinh một chất đặc biệt gọi tắt là AITC. Hợp chất này có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư.
AITC thực chất là sản phẩm của quá trình phá vỡ hợp chất sinigrin trong các loại rau họ cải. Thí dụ như mù tạc, bắp cải, súp lơ, củ cải Thuỵ Điển, cải xoăn, wassabi… AITC xuất hiện khi cắt, chế biến và tiêu hóa rau. Theo các chuyên gia đến từ Viện nghiên cứu Thực phẩm Anh. AITC ngoài khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư ruột kết. AITC còn có thể ngăn chặn sự xâm lấn của khối u.
Kết quả nghiên cứu được tuyên bố vào thời điểm Quỹ Ung thư Thế giới (WCRF) thông báo kế hoạch. Họ triển khai một nghiên cứu quy mô nhất từ trước tới nay về chế độ dinh dưỡng và căn bệnh ung thư. Trong đó, các nhà khoa học trên toàn cầu sẽ được giao nhiệm vụ tìm hiểu hơn 10.000 công trình liên quan, nhằm thiết lập một hướng dẫn tổng hợp, cụ thể và đáng tin cậy về loại thực phẩm nào con người cần ăn để chống ung thư.
Cho đến nay, nội dung nghiên cứu đã được phân bổ về một số viện nghiên cứu và đại học. Các đại học ở Leeds và Bristol (Anh) sẽ chịu trách nhiệm đối chiếu thông tin các loại ung thư. Ví dụ như ung thư tuyến tuỵ, dạ dày, bàng quang, tuyến tiền liệt và thận. Ở Mỹ, Đại học bang Pennsylvania sẽ tìm hiểu sâu về ung thư miệng và vòm họng.
Đại học Johns Hopkins sẽ tập trung nghiên cứu về ung thư phổi và họng trên. Trường Kaiser Permanente sẽ nhận đề tài về ung thư tử cung. Tại Hà Lan sẽ là ung thư ruột kết, trực tràng, gan và túi mật; còn Viện Ung thư Italy sẽ tìm hiểu ung thư vú, buồng trứng và cổ tử cung.
XI – Quả chuối:
Bạn không gầy và ốm đau, song đầu hay bị choáng váng, người luôn mỏi mệt, uể oải và bồn chồn. Đó là những biểu hiện thông thường nhất của chứng bệnh stress trong cuộc sống hiện đại.
Thần kinh căng thẳng cần được chăm sóc và tăng cường bồi bổ. Có rất nhiều loại thực phẩm hỗ trợ cho thần kinh nhưng không gây béo. Vì vậy, việc lựa chọn đúng loại và đúng liều lượng là bí quyết giúp tinh thần luôn sảng khoái.
Thực đơn hoàn thiện
Ăn đủ bữa và đủ chất là yếu tố đầu tiên cần lưu ý. Trong bữa ăn cần có đủ rau, ngũ cốc và hoa quả. Nhóm vitamin B và carbohydrate trong ngũ cốc sẽ giúp cơ thể sản xuất đủ lượng đường glucose. Chúng đảm bảo cho cơ thể không bị hạ đường huyết. Việc hạ đường huyết là nguyên nhân số một gây bồn chồn và cáu gắt.
Đối với thần kinh yếu…
Bột mỳ là dưỡng chất an toàn nhất. Người có thần kinh yếu ăn thêm bánh mỳ hoặc các loại bánh quy trong ngày. Nên lưu ý đến những loại rau quả chứa nhiều vitamin và kẽm . Vì chúng có tác dụng bồi bổ não ví dụ như quả bơ, hồng đỏ và xoài, chuối … Thói quen uống đều đặn chè hà thủ ô cũng giúp tăng cường sức khỏe thần kinh.
Uống nhiều nước
Uống nước lọc vào bất cứ lúc nào có thể. Cố gắng tiếp nhận 2-3 lít nước một ngày. Cần loại bỏ thói quen uống các chất độc hại như cà phê, rượu, chè đen.
Làm nóng cầu chì năng lượng…
Bằng những thực đơn sau:
– Nấu cháo gạo tẻ với sữa 2 lần/tuần.
– Salát hoa quả gồm chuối, dứa.
– Bữa phụ nên ăn lạc rang, hạt điều, hạt dẻ.
Nước sinh tố: 1 quả chuối, 1 thìa nước cốt chanh tươi, 1 thìa lạc rang bóc vỏ, 1 thìa mật ong, 150 mg sữa tươi. Tất cả cho vào xay nhuyễn, uống không hoặc kèm với đá bào. Trong nước sinh tố này, vitamin B6 từ chuối và mật ong sẽ tăng cường năng lượng. Sữa giàu canxi và lạc mang lại lecithin. Tất cả đều rất có lợi cho hoạt động của não bộ.
XII – Rau muống:
Rau muống có thể thải trừ cholesterol máu và chống tăng huyết áp. Vì vậy, những người bị chứng huyết áp cao, cholesterol máu cao nên ăn nhiều loại rau này.
Theo Đông y, rau muống vị ngọt nhạt, tính mát, có tác dụng giải độc, thông đại tiểu tiện, chữa táo bón, đái rắt. Dân gian dùng rau muống để phòng và chữa một số chứng bệnh thường gặp:
– Làm mất tác dụng của những thuốc đã uống, giải độc: Rau muống rửa sạch giã nát, vắt lấy nước uống.
– Chữa vết thương, vết mổ sâu rộng: Ăn rau muống hằng ngày kích thích sinh da chóng đầy miệng (những trường hợp có cơ địa sẹo lồi không nên dùng trong thời gian chưa liền sẹo).
– Giảm đường máu: Bệnh nhân tiểu đường nên dùng rau muống thường xuyên.
– Chữa dị ứng bội nhiễm ngoài da: Rau muống tươi một nắm rửa sạch, đun sôi kỹ, để vừa ấm, rửa chỗ thương tổn. Hoặc: Rau muống 30 g, râu ngô 15 g, mã thầy (củ năn) 10 củ. Sắc uống hằng ngày đến khi khỏi.
XIII- Hành ta, hành tây:
Các nhà dược học cho biết, hành chứa chất kháng sinh alixin, có khả năng diệt khuẩn rất mạnh. Trong hành tây còn có chất phytonxit là loại kháng sinh mạnh.
Theo Đông y, hành ta vị cay, tính bình, không độc, có khả năng giải cảm, hoạt huyết. Hành dùng làm thuốc ra mồ hôi, lợi tiểu, sát trùng, chữa đau răng. Hành còn chữa sốt cảm, nhức đầu, mặt phù thũng, làm an thai, sáng mắt… Hành còn kích thích thần kinh, làm tăng bài tiết dịch tiêu hóa. Và nó còn phòng ngừa ký sinh trùng đường ruột, trị tê thấp. Dùng ngoài chữa mưng mủ. Nước hành nhỏ mũi giúp chữa ngạt mũi cấp tính, mạn tính, viêm niêm mạc mũi.
Hành tây còn dùng chữa ho, trừ đờm, kích thích tiết mồ hôi, lợi tiểu. Ngoài ra còn chống phù thũng, trị bệnh cổ chướng, tiểu đường, giúp ngủ ngon. Hành còn làm tiêu nhanh các chất bột, trừ giun đũa, trừ ho, chống béo phì, xơ cứng động mạch… Dùng ngoài trị áp xe, chín mé, mụn nhọt, chân nứt nẻ, mụn cóc, đau nửa đầu…Hành sống có tác dụng mạnh hơn.
nguồn: https://tailieumienphi.vn/doc/cayarauacuaqua-tri-benh-fxnotq.html